1. Khái niệm hệ thống màng sinh học.
Màng sinh học là siêu cấu trúc có cấu tạo màng lipoprotein, là cấu tạo tiền
thân của tất cả hệ thống màng của tế bào.
Màng sinh học xuất hiện đầu tiên là màng sinh chất bao quanh tế bào chất có
chứa các phân tử hữu cơ. Trong quá trình tiến hoá màng sinh chất phân hoá vào
khối tế bào chất tạo nên hệ thống màng nội bào. Hệ thống màng nội bào đảm bảo
chức năng riêng biệt, đồng thời chia tế bào chất thành những khu cách biệt tạo
điều kiện cho sự thực hiện các chức năng sống một cách có trật tự và hiệu quả
cao theo không gian và thời gian.
Hệ thống màng sinh học đều có cấu tạo chung là màng lipoproteit, ngoài ra
còn có hyđrat cacbon.
2. Cấu tạo màng sinh chất.
Màng sinh chất là màng lipoproteit bao phủ khối tế bào chất của tế bào.
Màng sinh chất khu trú và cách ly tế bào với môi trường ngoại bào, đồng thời
thực hiện chức năng trao đổi vật chất và thông tin giữa tế bào với môi trường.
Màng sinh chất tồn tại ở tất cả các dạng tế bào nhân sơ và nhân thực. Màng
sinh chất ở các dạng tế bào khác nhau có thể có cấu tạo khác nhau về hàm lượng
các chất, về siêu cấu trúc để thực hiện chức năng đặc biệt, nhưng đều có diện
cấu tạo chung và thành phần sinh hoá điển hình.
2.1. Thành phần sinh hoá, mô hình phân tử.
a. Lipit màng:
* Lipit ở trong màng chiếm khối lượng khoảng 50%(dao động từ 25-75%). Các lipit chủ yếu của màng là:
Photpholipit, cholesterol, glicolipit.
* Đặc tính của lipit màng:
Phân tử lipit có một đầu ưa nước(đầu phân cực) và một đầu kỵ nước(đầu không
phân cực). Đó là những phân tử lưỡng tính.
Trong môi trường nước các phân tử lipit sắp xếp sao cho các đầu phân cực
quay ra phía nước, còn đầu không phân cực quay lại với nhau do đó chúng hình
thành nên lớp lipit kép. Khi các mạch hyđro cacbon có liên kết đôi, tức là chưa
no thì lớp lipit kép có trạng thái lỏng, còn khi mạch hyđro cacbon no thì lớp
lipit kép có trạng thái nhầy.
- Cholesterol là một lipit quan trọng của màng. Phân tử cholesterol có một
nhóm phân cực và nhân steroid. Các phân tử cholesterol xếp xen kẽ vào giữa các
phân tử photpholipit theo cách nhóm phân cực xếp ở mức các đầu ưa nước của
photpholipit và nhân steroid xếp xen kẽ vào mạch ghét nước của photpholipit, có
tác dụng gây bất động cho các mạch và có vai trò cố định cơ học cho màng. Khi
thay đổi tỷ lệ cholesterol/photpholipit sẽ ảnh hưởng đến tính chất lỏng – nhầy
của màng(thường ở tế bào nhân thực tỷ lệ này là 1/1).
- Glicolipit là các lipit liên kết với các oligosaccarit.
b. Protein mang:
Protein trong màng sinh chất chiếm khoảng 50%(thường từ 25-75%), tuỳ dạng
tế bào mà hàm lượng và bản chất các protein có thể khác nhau.
Tuỳ theo cách sắp xếp của protein trong màng khảm lỏng(Singer-Nicolson) mà
người ta phân thành hai loại.
* Protein xuyên màng:
Những phân tử protein này nằm xuyên qua chiều dày của màng và liên kết rất
chặt chẽ với lớp kép lipit qua chuỗi axit béo. Phần nằm trong màng là kỵ nước
và liên kết với đuôi kỵ nước của lớp kép
lipit, các đầu của phân tử protein thò ra ngoài và rìa trong là ưa nước và có
thể là các tận cùng nhóm amin hoặc nhóm cacboxyl. Các protein có thể xuyên màng
một lần hoặc là xuyên màng nhiều lần.
Các protein xuyên màng thường liên kết với hyđrat cacbon tạo nên các
glycoprotein nằm ở phía rìa ngoài của màng.
* Protein rìa màng(protein bám màng):
Là những protein khu trú ở phía ngoài của màng hoặc phía trong của màng.
Những protein rìa màng thường liên kết với lớp lipit kép bằng liên kết hoá trị
với một phân tử photpholipit và xếp ở rìa ngoài hoặc rìa trong của màng.
Các protein rìa ngoài thường liên kết với gluxit tạo nên các glycoprotein.
Còn protein rìa trong thường liên kết với các protein tế bào chất liên hệ với
bộ xương tế bào tạo ra hệ thống neo màng và điều chỉnh hình dạng tế bào.
Các glicoprotein và glicolipit ở phía ngoài của màng tạo nên tính bất đối
xứng của màng và là thành phần của lớp áo cho tế bào.
c. Gluxit màng:
Gluxit trong màng sinh chất chiếm khoảng 2-10% đó là những mạch
oligosaccarit và polisaccarit liên kết với protein màng tạo nên các
glycoprotein hoặc proteoglican, liên kết với lipit tạo nên glicolipit và luôn
định khu ở mặt ngoài của màng.
Phần gluxit thò ra ngoài tạo nên một cấu trúc sợi – là lớp áo có chức năng
quan trọng như bảo vệ màng, tạo cực âm cho màng, kháng thể bề mặt, liên kết với
các tế bào láng riềng…
2.2. Tính linh hoạt của màng sinh chất.
Màng sinh chất không phải là màng cứng, tuy nó có tính ổn định để ngăn cách
tế bào với môi trường nhưng nó có đặc tính linh hoạt và là một hệ thống hầu như
“lỏng”. Đặc tính “lỏng” do tính chất của lớp kép lipit, các protein và
glicolipit và glycoprotein qui định nên.
a. Tính linh hoạt của lớp kép lipit.
- Thể hiện ở trạng thái lỏng hoặc nhớt của lớp do sự phân bố của
photpholipit no hay chưa no. Khi no màng ở trạng thái nhớt và khi chưa no màng
ở trạng thái lỏng.
- Thể hiện ở sự chuyển động của các phân tử lipit: chuyển động dịch
chỗ(sang phải hoặc sang trái, có thể chuyển từ một lớp lipit này sang lớp lipit
khác) và chuyển động co giãn(thể hiện ở tính co giãn của các phân tử lipit chưa
no và phụ thuộc vào hàm lượng cholesterol trong màng, sự tăng cao hàm lượng làm
cho màng tăng tính vững chắc).
b. Tính linh hoạt của các protein màng.
Thể hiện ở các phân tử protein có khả năng chuyển động quay và chuyển dịch
trong màng. Bình thường các phân tử protein phân bố ít nhiều đồng đều trong
màng, nhưng trong điều kiện thay đổi nào đó của môi trường thì các protein di
chuyển tạo nên những tập hợp.
c. Kiểm soát tính linh hoạt của màng.
Tính linh hoạt của màng đặc biệt là tính linh hoạt của các protein màng
được kiểm soát bởi các nhân tố bên ngoài và bên trong.
Sự kiểm soát tính linh hoạt của màng còn tuỳ thuộc vào hệ thống bộ xương tế
bào gồm các vi sợi và vi ống nằm sát màng liên kết với màng qua các protein rìa
trong màng.
3. Chức năng của màng sinh
chất.
Màng sinh chất thực hiện các chức năng sau đây:
a. Ngăn cách tế bào với môi trường.
Màng sinh chất ngăn cách tế bào với môi trường xung quanh tạo cho tế bào
một hệ thống riêng biệt và qua màng tế bào trao đổi chất một cách có chọn lọc
các chất với môi trường.
Màng sinh chất giữ cho tế bào có một hình dạng ổn định, nhưng đồng thời do
tính linh hoạt của màng tế bào có thể thay đổi hình dạng đáp ứng chức năng của
cơ thể như chuyển động, thực bào…
b. Thực hiện trao đổi chất giữa tế bào với môi trường bên ngoài(vận chuyển
chất qua màng).
Màng sinh chất cho nhiều chất đi qua theo cả hai chiều, các chất đi vào tế
bào là những chất cần thiết cho quá trình sống và là nguyên liệu tổng hợp nên
các chất xây dựng cấu trúc của tế bào, còn chất thải ra là các sản phẩm trao
đổi chất và các chất dư thừa.
Sự vận chuyển các chất qua màng không chỉ phụ thuộc vào kích thước, bản
chất mà còn phụ thuộc vào cấu tạo và tính chất của màng.
* Vận chuyển không kèm theo tiêu phí năng lượng:
Đó là phương thức vận chuyển thụ động, vận chuyển qua các kênh protein, vận
chuyển nhờ protein chất mang.
+ Vận chuyển thụ động:
Vận chuyển thụ động của các chất qua màng phụ thuộc vào các điều kiện sau:
- Kích thước của phân tử: Các chất có kích thước càng lớn tốc độ vận chuyển
càng chậm, tuy nhiên chất đó phải là chất không phân cực và không tích điện.
- Tính chất của phân tử: Những chất hoà tan trong lipit dễ dàng di qua
màng, còn các chất hoà tan trong nước khó đi qua màng(vì chúng bị lớp ghét nước
của lớp lipit kép giữ lại nên chúng được vận chuyển qua màng theo một cơ chế
khác).
- Gradien nồng độ: Một phân tử được vận chuyển nó phụ thuộc vào sự chênh
lệch nồng độ ở hai phía của màng, chúng di chuyển từ nơi có nồng độ cao đến nơi
có nồng độ thấp theo nguyên tắc khuếch tán.
Lợi dụng tính dễ qua màng của chất lipit người ta đã sản xuất các loại
thuốc có vỏ bao bọc là lớp lipit.
+ Vận chuyển các chất qua
các kênh protein:
Tính thấm của màng đối với nước và các chất tan trong nước có thể giải
thích bằng cơ chế tạo lỗ hoặc khe do sự di chuyển hợp nhóm của các protein có
trong màng.
+ Vận chuyển nhờ các
protein chất mang hay protein chuyên chở:
Sự vận chuyển các chất hoà tan còn được làm dễ dàng thêm nhờ cơ chế sử dụng
các protein mang hay protein chuyên chở. Các protein mang là các protein nằm
tại màng, được sử dụng làm chất chuyên chở bằng cách các protein mang gắn với
chất chuyên chở nhờ các phần có hình thù bổ trợ đặc trưng và chuyển chúng vào
trong tế bào chất. Hoạt tính này cũng tương tự như phản ứng giữa enzim – cơ
chất, nhưng khác ở chỗ chất được chuyên chở không bị làm thay đổi cấu trúc.
Trong hoạt động này protein mang thay đổi hình thù từ một phía của màng và trở
lại hình thù ban đầu ở phía kia của màng khi đã giải phóng chất chuyên chở.
Hoạt động của protein mang có thể xảy ra theo 3 phương thức và có thể tham
gia vào cơ chế vận chuyển chủ động(hoạt tải) hoặc thụ động.
- Vận chuyển đơn cảng: là trường hợp vận chuyển chỉ một chất từ phía này
đến phía kia của màng.
- Vận chuyển đồng cảng: là sự vận chuyển một chất này phải kèm theo đồng
thời sự vận chuyển một chất khác theo cùng hướng.
- Vận chuyển đối cảng: là trường hợp vận chuyển đồng thời hai chất nhưng
theo hai hướng ngược nhau, một chất đi vào tế bào còn chất kia đi ra môi trường
ngoại bào.
* Vận chuyển tích cực qua màng(vận chuyển tiêu phí năng lượng).
Sự vận chuyển tích cực hay hoạt tải là phương thức vận chuyển các chất qua
màng chống lại gradien nồng độ, có tiêu phí năng lượng ATP do tế bào cung cấp.
+ Hoạt tải các ion:
Các tế bào động vật có khả năng duy trì nồng độ Na+ thấp và K+
cao trong tế bào chất, trong khi đó ở môi trường ngoại bào thì ngược lại. Khả
năng đó là do màng sinh chất có khả năng hoạt tải các ion ngược với chiều nồng
độ.
Sự hoạt tải cần năng lượng vì thế khi sự hô hấp bị ức chế thì sự hoạt tải
bị đình trệ. Sự hoạt tải các ion có được là nhờ các “bơm ion”, bơm ion được tạo
nên bởi các protein xuyên màng.
Sự hoạt tải các ion có tầm quan trọng đối với tế bào trong các hoạt động
sống vì do sự khác biệt các ion ở trong và ngoài màng đã tạo nên điện thế màng.
Sự thay đổi điện thế màng từ điện thế nghỉ sang điện thế hoạt động là cơ sở điện
hoá của dẫn truyền thần kinh.
Các bơm ion hoạt động theo kiểu đồng cảng hoặc đối cảng với các ion khác
nhau hoặc đối cới các chất khác nhau.
+ Hoạt tải gluco:
Sự hoạt tải gluco cũng như các đường khác hoặc các axit amin tuỳ thuộc vào
sự có mặt của các permease đặc trưng, ATP và các ion.
Sự hoạt tải gluco được cung cấp năng lượng do sự thuỷ phân ATP và được kèm
theo trực tiếp sự vận chuyển các ion.(đồng cảng với Na+).
* Nhập bào và xuất bào( vận chuyển tích cực kèm theo sự biến đổi hình dạng
màng).
+ Nhập bào:
Hiện tượng nhập bào là sự hình thành các bóng nội bào do sự lõm vào và tách
ra của một phần màng sinh chất có chứa một chất rắn hoặc dịch lỏng. Nhập bào
gồm có thực bào và ẩm bào
- Dạng ẩm bào là hiện tượng bắt giữ và đưa vào tế bào các giọt chất lỏng
ngoại bào mà các chất hoà tan trong đó giống như thành phần dịch ngoại
bào.
- Dạng thực bào là hiện tượng tạo thành các thể thực bào có màng bao bọc và
chứa các phần tử rắn, vi khuẩn hoặc mảnh vỡ tế bào.
+ Xuất bào:
Là hiện tượng tạo thành các bóng xuất bào trong tế bào chất từ mạng lưới
nội sinh chất và phức hệ golgi. Bóng xuất bào được bao bọc bởi màng và chứa các
chất tiết hoặc các chất thừa mà tế bào không dùng đến cần phải xuất ra khỏi tế
bào.
Xuất bào là một phương thức vận chuyển chất ra khỏi tế bào qua màng sinh
chất. Các bóng xuất bào sẽ được di chuyển đến màng sinh chất và gắn vào mặt
trong màng, khi màng xuất bào gắn vào màng sinh chất thì hai màng hoà hợp tạo
nên vùng hoà hợp là vùng mà ở đó các protein màng di chuyển làm cho lớp lipit
kép đứt ra thành các mixen và do đó bóng xuất bào được mở ra và các chất chứa
được giải phóng ra ngoài tế bào.
c. Sự trao đổi thông tin qua màng.
Qua màng tế bào phát đi và thu nhận thông tin để điều chỉnh các hoạt động
sống. Thông tin ở dạng những tín hiệu hóa học(thường có bản chất là protein) có
khả năng liên kết đặc trưng với các thụ quan.
Tín hiệu có thể là nội tiết(tế bào phát thông tin xa tế bào nhận thông
tin), tín hiệu có thể là cận tiết(tế bào phát thông tin ở ngay cạnh tế bào nhận
thông tin), tín hiệu có thể là tự tiết(tín hiệu tác động lên bản thân tế bào
phát ra tín hiệu).
4. Lớp vỏ bao ngoài.
Đối với nhiều loại tế bào ngoài màng sinh chất còn được bao bởi một lớp vỏ
bao ngoài có vai trò bảo vệ, nâng đỡ cho màng sinh chất, tuy nhiên nhiều trường
hợp chúng tham gia vào các chức năng khác như: Trao đổi chất, miễn dịch…thành
phần hoá học chủ yếu là gluxit hoặc dẫn xuất của gluxit.
a. Lớp vỏ pectoxenlulo ở tế bào thực vật.
Tế bào thực vật bậc cao cũng như đa số thực vật bậc thấp đều có vỏ
pectoxenlulo bao quanh màng sinh chất.
Lớp vỏ pectoxenlulo được cấu tạo từ các polisaccarit, có tác dụng bảo vệ và
nâng đỡ, tạo nên sức trương và độ cứng chắc cho tế bào và cơ thể thực vật, đồng
thời cũng thực hiện chức năng trao đổi chất và cùng với màng sinh chất hình thành
cầu nối nguyên sinh chất giữa hai tế bào cạnh nhau.
Tuỳ loại tế bào mà vỏ có thể tích luỹ thêm các chất phức tạp tạo nên các
cấu trúc như gỗ(thêm lignin), bần(thêm suberin)….
b. Lớp áo ở tế bào động vật.
Tế bào động vật tuy không có lớp vỏ bao cứng như tế bào thực vật, nhưng các
nhà tế bào học xem lớp polisaccarit(tuy là một thành phần của glicolipit và
glicoprotein) thò ra ngoài màng sinh chất như là lớp áo tiếp xúc với môi
trường.
Lớp áo có chức năng bảo vệ, tạo tích điện âm, trao đổi chất, miễn dịch,
trao đổi thông tin…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét