1. Sự phân bố năng lượng trong môi trường
Tất
cả các hệ thống trên hành tinh này tồn tại được là nhờ năng lượng vô tận của
Mặt Trời. Nguồn năng lượng này chuyển xuống Trái Đất dưới dạng sóng ánh sáng.
Ánh sáng khi đi qua tầng khí quyển để đến được bề mặt Trái Đất bị suy giảm một
phần do các khí, hơi nước, bụi... hấp thụ và phản xạ lại vũ trụ. Những dải sóng
khác nhau bị hấp thụ khác nhau. Nói chung, bức xạ Mặt Trời xuống đến ngưỡng
trên của khí quyển có cường độ 2Cal/cm2/phút. Khi qua lớp khí quyển,
bề mặt hành tinh chỉ còn nhận 67% cường độ ban đầu, ứng với 1,34Cal/cm2/phút.
Năng lượng trên bề mặt hành tinh gồm 45% bức xạ
hồng ngoại, chủ yếu hình thành nhiệt; 45% là dải ánh sáng trắng, tham gia chính
vào quá trình quang hợp, còn 10% thuộc dải tử ngoại, đủ đảm bảo cho các hoạt
động sống của sinh vật. Lượng này tăng hơn sẽ gây ra nhiều hậu quả xấu: huỷ
hoại các enzym, gây ung thư da, làm đục thuỷ tinh thể..., 99% tổng năng lượng
nằm trong vùng quang phổ có bước sóng từ 0,136- 4000μ, khoảng 50% nguồn năng
lượng đó (gồm cả ánh sáng trắng với bước sóng 0,38 – 0,77μ) có ý nghĩa sinh
thái quan trọng, được thực vật sử dụng cho quang hợp gọi là bức xạ quang hợp. Thực vật hấp thụ rất
mạnh các tia màu xanh và màu đỏ cũng như một lượng nhỏ các tia sóng dài hơn với
các bước sóng 0,4 – 0,5μ và 0,6 – 0,7μ. Các tia xanh lá cây bị hấp thụ rất ít,
chủ yếu phản xạ trở lại tạo nên màu xanh của cây cối và của nước biển. Bóng mát
dưới tán cây là kết quả được tạo ra nhờ chất diệp lục của lá cây hấp thụ các
bức xạ quang hợp, còn nước trong lá và hơi nước bao quanh lá lại chọn các tia
có bước sóng dài.
Một thành phần khác của năng lượng trong môi
trường là bức xạ nhiệt sóng dài. Dạng này xuất hiện từ tất cả bề mặt của các
vật thể mà nhiệt độ của chúng luôn cao hơn nhiệt độ không tuyệt đối, bao gồm
bức xạ nhiệt từ mặt đất, mặt nước và thảm thực vật, mây, bụi... Chính vì thế,
những đêm đông trời quang mây tạnh, lạnh lẽo hơn so với những đêm trời u ám. Năng
suất sinh học của các hệ sinh thái và chu trình các muối dinh dưỡng thì tổng
bức xạ Mặt Trời được sinh vật tự dưỡng hấp thụ có ý nghĩa quan trọng nhất. Dòng
năng lượng chung được phân chia cho các quá trình động học trong sinh quyển như
ở bảng 3.7.
Bảng 3.7.
Năng lượng Mặt Trời của các quá trình xảy ra trên hành tinh
Các
dạng biến đổi |
% |
Phản xạ trở lại Biến đổi trực tiếp thành nhiệt Làm bốc hơi nước và gây mưa Tạo gió, sóng, dòng bề mặt Quang hợp của thực vật |
30,0 46,0 23,0 0,2 0,8 |
2. Dòng năng lượng đi qua hệ sinh thái
Năng lượng đi qua hệ sinh thái qua các bậc dinh
dưỡng của xích thức ăn, một phần được sinh vật sử dụng cho hô hấp, còn phần lớn
biến đổi thành nhiệt thoát ra môi trường. Năng lượng đi qua hệ sinh thái được
sử dụng một lần, phần lớn thoát ra môi trường dưới dạng nhiệt. Trong sinh
quyển, khi chuyển từ bậc dinh dưỡng thấp lên bậc dinh dưỡng cao kề liền, trung
bình năng lượng thất thoát tới 90%. Ví dụ: năng lượng tiêu tốn cho hô hấp của sư tử và
báo trên các đồng cỏ nhiệt đới quá lớn cho nên kích thước quần thể của các loài
này rất nhỏ.
Năng lượng thất thoát theo 3 con đường chính: năng
lượng chứa trong các sản phẩm mà sinh vật tiêu thụ không sử dụng; năng lượng
được sử dụng từ thức ăn, nhưng không được đồng hoá, thải ra môi trường dưới
dạng các chất bài tiết và chất trao đổi cuối cùng; năng lượng mất đi dưới dạng
nhiệt hô hấp. Do sự thất thoát năng lượng quá lớn nên xích thức ăn không thể
kéo dài, thường 3 – 4 bậc đối với các hệ sinh thái trên cạn và 6 – 7 bậc đối
với các hệ sinh thái ở nước.
Năng lượng mặt trời cho quang hợp chỉ chiếm 50%
tổng lượng bức xạ chung. Thực vật tiếp nhận năng lượng nhờ hệ sắc tố. Chúng gồm
4 nhóm: sắc tố a đặc trưng cho tất cả
các thực vật bậc cao và tảo, sắc tố b – cho tất cả các thực vật bậc cao và tảo
Lam (Green algae), sắc tố c - cho Bacillariophyta và Phaeophyta, sắc tố d –
cho Rhodophyta. Mỗi nhóm sắc tố khác nhau thích ứng với sự hấp thụ những sóng
ánh sáng khác nhau. Chloropil hấp thụ các tia thuộc phổ nhìn thấy (400 - 700μ)
với 2 vùng xanh lam (430μ) và đỏ (662μ); sắc tố vàng (carotenoit) gồm caroten
và xanthophin có phổ hấp thụ tương ứng là 446 - 476μ và 451 - 481μ. Nhóm sắc tố
xanh phycobilin đặc trưng cho các loài thực vật bậc thấp ở nước. Nhóm này ưa
nước nên có tên là biliprotein hay phycobiliprotein, gồm phycoerythrin đặc
trưng cho Rhodophyta và một số Cyanophyta và phycocyanin có mặt ở tất cả
Cyanophyta và một số Rhodophyta.
Trong quang hợp, thực vật chỉ sử dụng được một
phần nhỏ bức xạ ánh sáng. Thảm thực vật ở các vùng ôn đới chỉ hấp thụ được 100
– 800 Cal/cm2/ngày, trung bình 300 – 400 Cal/cm2/ngày (Reifsnyder
Lull, 1965). Các hệ sinh thái trên cạn và dưới nước chỉ có thể biến đổi từ 0,1-
1,6% tổng năng lượng bức xạ mặt trời. Ở hệ sinh thái tự nhiên, sản lượng thô ít
khi tích tụ trên 3% tổng lượng bức xạ, mặc dù trên đồng ruộng thâm canh có thể
đạt đến 6 – 8% (Kormondy, 1996). Hiệu suất quang hợp theo sản lượng thô trong
sinh quyển chỉ vào khoảng 0,2 – 0,5% tổng lượng bức xạ hay 0,4 – 1,0% bức xạ
quang hợp.
Như vậy, chất hữu cơ do sinh vật tự dưỡng sản xuất
ra (PG) được thực vật sử dụng một phần để duy trì, tăng trưởng... và
thải ra dưới dạng nhiệt hô hấp (PR). Phần còn lại là nguồn thức ăn
cho các loài sinh vật ăn cỏ (herbivore) là nguồn thức ăn động vật đầu tiên cho
các loài động vật ăn thịt (carnivore).
Để đánh giá sản lượng sơ cấp thô người ta có thể
sử dụng qua sản lượng thu hoạch:
∆B = B2 – B1
Trong đó: ∆B
là sự gia tăng sinh khối, còn B1
và B2 là sinh khối
thực vật ở thời điểm t1 và
t2. Sự thất thoát năng
lượng xảy ra bởi 2 con đường:
+) Sinh khối thực vật hay một phần thực vật bị
chết (L).
+) Sinh khối mất do động vật ăn cỏ sử dụng (G).
Như vậy, sản lượng sinh vật sơ cấp dành cho các
loài sinh vật dị dưỡng được đánh giá theo biểu thức: PN = ∆B + L + G
Giá trị sản lượng sinh vật sơ cấp tinh (PN)
của các hệ sinh thái trên Trái Đất theo Field et al. (1998): Đại dương: 48,5 ;
Các hệ sinh thái trên cạn: 56,4; Trên toàn sinh quyển: 104,9 (Đơn vị: Petagram, trong đó 1 pte. = 1015g
= 109 tấn).
Hiệu quả quang hợp (%) hay hiệu suất đồng hoá năng
lượng bức xạ của thực vật được đánh giá theo biểu thức:
(Trong
đó: Eff là hiệu suất sử dụng năng lượng ánh sáng của sinh vật tự dưỡng, Eas –
Năng lượng được thực vật đồng hoá trong quang hợp, Esun - Tổng năng lượng bức
xạ mặt trời).
Chẳng hạn, Kozlovski (1968) đã tính hiệu suất
quang hợp của phytoplankton trong hồ
Quần xã phytoplankton có hiệu suất quang hợp rất
thấp(< 0,5%), thực vật có rễ hay các loài tảo đa bào sống bám ở nơi nước
nông có thể có hiệu suất cao hơn. Giá trị đó đối với rừng là 2,0 – 3,5%, cao
hơn so với các đồng cỏ (1,0 – 2,0%) (Kira, 1975).
Trong các thuỷ vực, hơn 50% bức xạ mặt trời, trước
hết là các tia thuộc dải hồng ngoại, bị hấp thụ ngay ở lớp nước mặt với bề dày
1m. Ở nơi nước trong cũng chỉ 5 – 10% tổng bức xạ có thể xâm nhập xuống độ sâu
20m. Sự suy giảm cường độ ánh sáng có thể được mô tả theo đường cong:
Ở đây, l - lượng
bức xạ (J/m2/đơn vị thời gian),
t - độ sâu, l - hệ số tắt dần (hằng số).
Sự phát triển của sản lượng sinh vật sơ cấp phụ
thuộc vào nhiều nhân tố: chế độ chiếu sáng, muối dinh dưỡng, nhất là muối nitơ
và photpho và các điều kiện môi trường vô sinh (nhiệt độ, độ đục, pH...) cũng
như đặc tính sinh học của quần xã thực vật.
Nguồn thức ăn sơ cấp (PN) được động vật
ăn thực vật sử dụng, tiếp theo là động vật ăn thịt các cấp khác khai thác lẫn
nhau làm thức ăn tạo nên xích thức ăn và lưới thức ăn phức tạp trong hệ sinh
thái. Tổng năng lượng theo xích thức ăn thực vật đi qua hệ sinh thái về mặt lý
thuyết có thể viết một cách tổng quát như sau:
PG – PR =
PN =
Trong đó: NUi
là năng lượng bậc i không được các loài động vật không xương sống khác.
Trong mỗi nhóm khi hô hấp mất đi 1kJ thì sản lượng cũng đạt tương tự như thế,
khoảng 1kJ. Điều đó có nghĩa rằng, hiệu suất sản xuất hay tỷ số P/(R + P) đối
với tất cả các nhóm kích thước của 7 nhóm động vật là như nhau.
Đối với động vật và chim, nói chung, hô hấp tiêu
thụ một nguồn năng lượng lớn, tới 97 – 99% năng lượng đồng hoá được, do đó, chỉ
1 – 3% năng lượng tạo sản lượng thứ cấp, động vật đẳng nhiệt có tiềm năng sinh
học cao, đủ khả năng sống và chinh phục được mọi nơi, mọi điều kiện môi trường
khác nhau trên hành tinh.
Đối với các hệ sinh thái ở nước, hiệu suất sinh
thái thay đổi từ 2- 24%, trung bình là 10,1%. Người ta đã áp dụng hệ số này
trong nghề cá biển. Chẳng hạn, cá ngừ là vật dữ đầu bảng, ở bậc dinh dưỡng thứ
4. Tại thời điểm năm 1990, nghề cá đã khai thác 2.975.000 tấn cá ngừ, tỷ lệ các
bậc dinh dưỡng được thiết lập như sau:
Cá ngừ → Cá nổi nhỏ →
Zooplankton → Phytoplankton
0,1 1,0
10,0 100,0
Từ sản lượng cá ngừ có thể đánh giá được sản lượng
các nhóm sinh vật trước nó. Trên cơ sở số liệu của nghề cá thế giới có được.
Lauly & Christensen (1995) chỉ ra rằng, ở các đại dương, trung bình 8% sản
lượng Phytoplankton đã được chuyển đổi qua các xích thức ăn để cho nhân loại
sản lượng cá khai thác như hiện nay.
Bảng 3.8.
Hiệu suất sản xuất trung bình của các nhóm động vật (xếp theo chiều tăng)
Nhóm động vật |
Hiệu
suất sản xuất (%) |
Số
lượng nghiêncứu |
Động
vật ăn côn trùng |
0,86 |
6 |
Chim |
1,29 |
9 |
Các
loài thú nhỏ |
1,51 |
8 |
Các
loài động vật khác |
3,14 |
56 |
Cá và côn trùng xã hội |
9,77 |
22 |
Động
vật không xương sống khác (trừ côn trùng) Ăn
cỏ (Herbivore) Ăn
thịt (Carnivore) Ăn
mùn bã hữu cơ (Detritivore) |
25 20,8 27,6 36,3 |
73 15 11 23 |
Côn
trùng không sống kiểu xã hội Ăn
cỏ (Herbivore) Ăn
thịt (Carnivore) Ăn
mùn bã hữu cơ (Detritivore) |
40,7 38,8 47,0 55,6 |
61 49 6 5 |
Ghi chú: Hiệu suất sản xuất được tính theo
công thức: Eff = Sản lượng tinh của loài (kJ)/Năng lượng được loài đồng hoá
(kJ) (Theo Humphrey, 1979)
Trong nghiên cứu mối quan hệ dinh dưỡng của các
loài trong quần xã, khi biết được hiệu suất sinh thái trung bình của xích thức
ăn (E), năng lượng sơ cấp tinh (PN) tích tụ trong sinh vật tự dưỡng
và lượng thức ăn được sinh vật tiêu thụ sử dụng (US) thì chiều dài
hay số bậc dinh dưỡng của xích thức ăn có thể xác định được theo công thức:
n = (lgUs – lgPN)/lgE
Ví dụ, ở khơi đại dương, sản lượng thức ăn sơ cấp
tinh PN = 2.100 J/m2/năm, vật liệu tiêu thụ sử dụng (US)
= 0,4J và hiệu suất sinh thái trung bình (E) = 0,25, chiều dài xích thức ăn như
sau:
n = (lg 0,4
– lg 2100)/lg 0,25 ≈ 6 bậc
Khác với các hệ sinh thái ở nước, xích thức ăn phế
liệu xảy ra ở môi trường đất, đóng vai trò chủ yểu trong sự biến đổi vật chất
và năng lượng đối với các hệ sinh thái trên cạn. Sinh vật trong đất rất đa dạng
về thành phần loài. Ngoài các nhóm sinh vật lớn như nấm, mốc, vi khuẩn, nhiều
loài vi tảo (micro-algae) còn bao gồm các đại diện của hơn 10 ngành động vật
như động vật Nguyên sinh (Protozoa), Giun dẹt (Plathelminthes), Giun vòi
(Nemertini), Giun tròn (Nematoda), Giun đốt (Annelida), Chân ngắn (Tardigrada),
Có móc (Onycophora), Chân khớp (Arthropoda), Thân mềm (Mollusca) và các đại diện thuộc Trùng Bánh xe (Rotatoria),
Giun trắng (Enchitraeidae), Mọt biển (Crustacea: Oniscoidea), một số loài lưỡng
cư, bò sát và thú nhỏ (Chuột, Don, Dúi,...).
Trong số những loài động vật đất, nhiều loài sống
suốt đời trong đất, nhiều loài coi đất như môi trường tạm thời, chỉ cần cho một
số giai đoạn nào đó trong chu kỳ đời sống của mình. Trong số các loài côn trùng
có tới 98% tổng số loài sống gắn bó với môi trường đất trong suốt cả cuộc đời.
Sinh vật đất tham gia phân huỷ sản phẩm rơi rụng
của thảm thực vật ở lớp đất mặt (tầng O) để tạo mùn cho lớp đất dưới bề mặt
(tầng A1). Giun đất và nhiều
loài côn trùng (kiến, mối), ấu trùng và thiếu trùng, chiếm sản lượng chủ yếu
của các hệ sinh thái đất và chỉ làm cho đất tơi xốp mà còn làm tăng độ phì của
đất bằng lượng mùn bã khổng.
3. Sản lượng sinh vật sơ cấp và thứ cấp của
hệ sinh thái
3.1. Sản lượng sinh vật sơ cấp và sự phân
bố của nó trong các hệ sinh thái
Sản lượng sinh vật sơ cấp được hình thành từ quá
trình quang hợp của thực vật và tảo, gồm sản lượng sinh vật sơ cấp thô hay tổng
sản lượng sơ cấp (PG). Sinh vật tự dưỡng đồng hoá một phần nguồn
chất hữu cơ do đó cho sự tồn tại và phát triển của mình (Pg), phần
còn lại gọi là sản lượng sơ cấp tinh (PN) để nuôi các sinh vật dị
dưỡng.
Trong sinh quyển, tổng sản lượng của các hệ sinh
thái trên cạn chiếm 54%, còn trong thuỷ quyển là 46% (Field et al., 1998) với
các chi tiết được trình bày trong bảng 3.9.
Bảng 3.9.
Phân bố sản lượng sơ cấp của các hệ sinh thái trên hành tinh
Các hệ
sinh thái |
Sản
lượng tinh (PN) tính theo petagram C/năm (1petagram = 1015g
= 109 tấn) |
Đại dương Trên cạn: - Rừng mưa nhiệt đới - Rừng lá rộng theo mùa - Rừng hỗn tạp lá rộng và lá kim - Rừng lá kim thường xanh - Rừng lá kim rụng lá - Savan - Đồng cỏ nhiều năm - Cây bụi lá rộng - Đồng rêu - Hoang mạc - Các vùng canh tác Toàn cầu |
48,5 56,4 17,8 1,5 3,1 1,4 16,8 2,4 1,0 0,8 0,5 8,0 104,9 |
Đối với các hệ sinh thái trên cạn, sản lượng sơ
cấp chủ yếu tập trung trên các lớp bề mặt, càng xuống sâu hơn, giá trị đó càng
giảm. Ở các vùng vĩ độ thấp, sinh khối thực vật tập trung chính ở phần trên mặt
đất. Ở các vùng vĩ độ cao, quá trình phân huỷ xác thực vật đã tạo nên lớp đất
màu mỡ dày hơn nhiều so với lớp đất mặt của các vùng vĩ độ thấp. Khi rừng nhiệt
đới bị chặt trắng, do mưa rửa trôi lớp màu mỡ này của đất, lượng bốc hơi lớn
còn kéo lên tầng đất mặt các kim loại (nhôm,
sắt...) và tạo ra các lớp đất đá ong, còn được gọi là hiện tượng “đá ong
hoá” hay “feralit hoá”.
Ở biển và đại dương, sự sống phân bố theo chiều
thẳng đứng sâu hơn, tầng quang hợp chỉ nằm trong lớp nước được chiếu sáng, tập
trung tại độ sau nhỏ hơn 100m, thường từ bề mặt đến sải nước sâu 50 – 60m. Nước
ven bờ có độ trong thấp, nhưng giàu muối dinh dưỡng nên sản lượng sơ cấp cao, ở
ngoài khơi đại dương, mặc dù độ trong lớn, nhưng muối dinh dưỡng nghèo trở
thành yếu tố giới hạn đối với sự phát triển của phytoplankton, kéo theo là sự
nghèo nàn của năng suất sinh học thứ cấp.
Trong các thuỷ vực ở vùng ôn đới, sản lượng sinh
vật sơ cấp thường cao hơn so với các thuỷ vực thuộc vĩ độ thấp bởi vì toàn bộ
khối nước của chúng được xáo trộn 2 lần trong năm, trong khi ở các thuỷ vực sâu
(hồ sâu, biển) ở vùng nhiệt đới xích đạo quanh năm nước bị phân tầng, trừ các
khu vực nước trồi (upwelling) hay nơi giáp ranh giữa các hoàn lưu với sự xuất
hiện của dòng thăng-giáng (divergent và convergent) mang nguồn muối dinh dưỡng
giàu có từ khối nước sâu bổ sung cho tầng nước bề mặt.
3.2. Sản lượng sinh vật thứ cấp của hệ
sinh thái
Sản
lượng sinh vật thứ cấp được nhóm sinh vật dị dưỡng sản sinh ra trong quá trình
đồng hoá thức ăn. Để đánh giá sản lượng sinh học thứ cấp đối với các nhóm sinh
vật biển, người ta thừa nhận tỷ lệ (%) của thành phần các chất khác nhau theo
sinh khối và dung tích năng lượng của chúng như sau:
Bảng
3.10. Sinh khối và dung tích năng lượng của các nhóm động vật (Bogorov, 1974)
Nhóm
động vật |
Nước |
Protein |
Lipit |
Gluxit |
Chất
tro |
E (kJ) |
Zooplankton |
70 |
12 |
3 |
3 |
12 |
2,1 |
Zoobenthos |
63 |
10 |
1 |
3 |
23 |
1,9 |
Nekton |
73 |
19 |
4 |
1 |
3 |
4,5 |
Trong nước ngọt, các nhóm động vật cũng có những
giá trị tương tự.
Hiện nay, có nhiều phương pháp đánh giá sản lượng
sinh vật thứ cấp, chẳng hạn, số lượng và khối lượng được tính theo 2 biểu thức
tương ứng sau:
N = Nr
+ Nm + Nt + Nf
P = Bm
+ Bi + Bf + Bd + (B2 – B1)
Trong đó: N
- Số lượng sinh vật thứ cấp cần tính.
Nr: Số lượng sinh vật còn lại ở cuối thời gian
nghiên cứu.
Nm : Số lượng sinh vật bị chết.
Ni : Số lượng
sinh vật đã biến thái thành dạng trưởng thành hoặc đi khỏi vùng.
Nf : Số lượng sinh vật bị sinh vật khác sử dụng làm
thức ăn.
P : Số lượng sinh vật cần tính.
Bm : Khối lượng sinh vật bị chết.
Bi : Khối lượng sinh vật đã biến thái hoặc di cư
khỏi vùng.
Bf : Khối lượng sinh vật bị vật khác sử dụng làm
thức ăn.
Bd : Khối lượng sinh vật bị tiêu hao trong quá trình
trao đổi chất.
(B2
– B1): Sự gia tăng
sinh khối ở 2 thời điểm nghiên cứu t2
và t1.
Công thức cơ bức sản lượng chung được mô tả dưới
đây:
P(t2-t1) = Bt2
– Bt1 + P’
Trong đó: P(t2-t1)
- Sản lượng sinh vật gia tăng
trong khoảng thời gian t1 – t2.
Bt1
và Bt2 – Sinh vật lượng ở thời điểm t1 và t2.
P’ - Khối lượng sinh vật bị hao hụt trong khoảng
thời gian t1 – t2.
Sản lượng sinh vật thứ cấp biến động do nhiều
nguyên nhân: trước hết là nguồn thức ăn, sau là hiệu quả sử dụng và đồng hoá
thức ăn cũng như các điều kiện môi trường vô sinh và hữu sinh khác đảm bảo cho
quá trình dinh dưỡng của các nhóm động vật.
Trên cơ sở nguồn dữ liệu khá đầy đủ được tổng hợp
lại, năng suất sinh học của các nhóm sinh vật chính của đại dương được đánh giá
như sau (Bogorov và nnk., 1984):
- Sinh vật lượng vi khuẩn dao động từ 2 – 10mgC/m3,
hệ số P/B ngày đêm là 0,5 – 1,0 với sản lượng ngày đêm là 0,5 – 1,5g/m2,
lượng chất hữu cơ được vi khuẩn phân huỷ trong một ngày đêm là 1,5 – 4,5g/m2
(Sorokin và nnk., 1975).
- Sinh vật lượng trung bình của microplankton
(Infusoria. Rotatoria, các giai đoạn sau nauplius của Copepoda) chiếm khoảng 30
– 40% sinh vật lượng Zooplankton.
- Sinh vật lượng trung bình của Mesoplankton và
Macroplankton ở các lớp nước tầng mặt (dày 100m) trong đại dương dao động từ
một vài mg đến 500mg/1m3 nước hoặc cao hơn. Tổng sinh khối là 21,5 tỷ tấn với
P/B là 2,5 thì sản lượng chung là 53 tỷ tấn.
- Sinh vật lượng Zoobenthos của đại dương cũng dao
động từ một vài mg đến một vài kg/m2, trong đó 80% tập trung ở vùng
nước nông thềm lục địa. Theo độ sâu, sinh vật lượng Zoobenthos giảm ( bảng
3.11)
Bảng 3.11. Phân bố sinh khối trung bình theo độ sâu
Dải độ
sâu (m) |
Sinh
khối trung bình (g/m2) |
Tổng
sinh khối (106 tấn) |
0 – 200 |
200 |
5.500 |
200 – 3000 |
20 |
1.104 |
> 3000 |
0,2 |
6 |
Tổng sinh vật lượng của Zoobenthos toàn đại dương
khoảng 10 tỷ tấn với P/B là 1/3 và tổng sản lượng được đánh giá là 3 tỷ tấn.
- Động vật Nekton có sinh vật lượng là 1 tỷ tấn,
P/B là 0,2 và sản lượng chỉ đạt 200 triệu tấn. Do đó, mức khai thác cho phép
của đại dương là 100 triệu tấn mỗi năm
Từ số liệu trên, một lần nữa lại khẳng định rằng,
trong xích thức ăn của các hệ sinh thái nói chung, tổng sản lượng thứ cấp của
các bậc dinh dưỡng sau thường thấp hơn so với các bậc dinh dưỡng trước nó, tổng
sản lượng của vật dữ đầu bảng bao giờ cũng nhỏ nhất.
Đối với các hệ sinh thái trên cạn, hiệu suất sử
dụng năng lượng của các bậc dinh dưỡng thường thấp hơn so với các hệ dưới nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét