1. Những quan niệm khác nhau về sự thích nghi của sinh vật
Các
nhà tự nhiên thần học đã giải thích sự thích nghi trong tự nhiên như là hoạt
động sáng tạo của Thượng đế, rằng, khi Thượng đế sáng tạo ra thế giới thì đồng
thời cũng sáng tạo ra sự sống trên đó và cho nó là sự thích nghi.
Lamac (1809) với quan niệm không đúng về sự di
truyền tập nhiễm thu được, cho rằng: mọi sinh vật vốn có khả năng phản ứng phù
hợp với ngoại cảnh thay đổi. Ngoại cảnh thay đổi một cách chậm chạp nên sinh
vật có khả năng thích ứng kịp. Sinh vật thích nghi trực tiếp phù hợp với những
biến đổi chậm chạp của ngoại cảnh và tập quán hoạt động thì sẽ không có loài
nào bị diệt vong.
Đacuyn (1859) đã giải thích sự thích nghi bằng tác
dụng của chọn lọc tự nhiên. Các cá thể trong loài thường xuyên phát sinh các
biến dị cá thể. Tác nhân gây ra sự chọn lọc là áp lực của chọn lọc tự nhiên
diễn ra trong điều kiện hgoại cảnh thường xuyên biến đổi. Kết quả là là sự tồn
tại, phát triển và hưng thịnh của các cá thể mang các biến dị có lợi hơn. Như
vậy, sự thích nghi theo Đacuyn là một quá trình lịch sử, đặc điểm thích nghi
chỉ hợp lý tương đối.
Thuyết tiến hoá hiện đại trên cơ sở của di truyền
học hiện đại và di truyền học quần thể đã củng cố và phát triển quan niệm của
Đacuyn về sự thích nghi và quá trình hình thành các đặc điểm thích nghi sinh
vật.
Theo nghĩa rộng, sự thích nghi được hiểu như là sự
hài hoà giữa cơ thể với môi trường sống. Theo nghĩa hẹp, sự thích nghi được
hiểu là những đặc điểm cụ thể về hình thái, giải phẩu, sinh lý đặc biệt có khả
năng duy trì sự sống sót và sinh sản của cơ thể trong những điều kiện môi
trường cụ thể.
Các đặc điểm kiểu hình là kết quả tương tác giữa
kiểu gen với môi trường. Thế hệ trước truyền lại cho thê hệ sau không phải là
những đặc tính đã hình thành sẵn mà truyền lại cho thế hệ sau kiểu gen quy định
khả năng phản ứng thành những kiểu hình thích hợp với môi trường cụ thể.
Đôpgianxki (1962), cho rằng: có thể xác định có ít
nhất 3 loại thích nghi: thích nghi cá thể, thích nghi quần thể và thích nghi di
truyền. Thích nghi cá thể và thích nghi quần thể được coi như khả năng của cá
thể hay quần thể để lại cho thế hệ con cháu có khả năng biến đổi trong mối liên
quan với khả năng của cá thể hay quần thể khách. Thích nghi di truyền của một
kiểu gen được đo bằng sự đóng góp của nó cho thế hệ sau trong mối liên quan với
kiểu gen khác đối với vốn gen của thế hệ sau: tính thích nghi là sự đóng góp trung bình của một alen hoặc kiểu gen
cho thế hệ sau hoặc các thế hệ tiếp theo so với một alen hoặc kiểu gen khác (Futuyama,
1986).
2. Chọn lọc tự nhiên là sự hình thành đặc
điểm thích nghi của quần thể
Chọn lọc
tự nhiên tác động trực tiếp lên kiểu hình thông qua đó dẫn đến hệ quả là chọn lọc những kiểu gen có khả năng phản ứng
thành kiểu hình thích nghi. Điển hình là:
2.1. Sự hoá đen ở một số loài bướm sống trong các vùng công nghiệp
Vào cuối thế kỷ XIX sang nửa đầu của thế kỷ XX, ở
nhiều vùng công nghiệp của nước Anh, người ta thấy sự chuyển từ màu trắng sang
màu đen của nhiều loài bướm, trong đó có loài bướm Biston betularia. Dạng bướm màu đen được phát hiện lần đầu tiên vào
năm 1848 ở vùng Manchester sau đó tỷ lệ bướm màu đen đã tăng rất nhanh ở nhiều
vùng công nghiệp, đến những năm đầu thế kỷ XX, tỷ lệ bướm đen chiếm hơn 90%.
Phân tích di truyền cho thấy, sự sai khác màu sắc
được điều khiển bởi một locus chính có 2 alen. Màu đen được quy định bởi một
alen trội C. Bướm trắng đốm đen (B.
betularia typica) có kiểu gen đồng hợp lặn cc, dạng bướm đen có thể có kiểu
gen CC hoặc Cc. Mặc dù bướm đen mới được phát hiện đầu tiên vào năm 1848, nhưng
ở một số loài bướm khác, đột biến màu đen cũng đã được phát hiện trước khi rừng
cây chưa bị khói làm ô nhiễm. Bướm B.
betularia carbonaria có thể đã phát sinh từ trước nhưng còn hiếm, sự cân
bằng giữa đột biến và chọn lọc có thể đã duy trì tần số thấp của đột biến này.
Cân bằng đột biến và chọn lọc có nghĩa là, một gen không có lợi và có tần số
thấp được xác định bởi sự cân bằng giữa quá trình đột biến và đào thải của chọn
lọc tự nhiên. Chọn lọc tự nhiên có tần số là m/s (m là tốc độ đột biến còn s là
giá trị chọn lọc chống lại gen ít có lợi). Ở thế kỷ XIX, giá trị m và s là chưa
biết được, nhưng Haldane đã phán đoán giá trị m = 10-6 (s = 0,1) đối
với gen C. Từ đó ông đã tính tần số gen cistron là khoảng 0,2 và của C là khoảng
0,8 ở thời điểm năm 1898, nghĩa là sau 50 thế hệ. Tuy nhiên, đối chiếu với số
liệu lý thuyết và số liệu thực nghiệm về sự biến đổi tần số tương đối của gen C
và c thì để làm tăng tần số của gen C từ 10-5 lên 0,8 trong 50 thế
hệ, cần có giá trị s = 0,33, tức tỷ lệ sống sót của bướm trắng đốm đen bằng 2/3
so với bướm màu đen.
Để kiểm tra điều này, Kettlewell (1973) đã thực
nghiệm đánh dấu một số lượng nhất định bướm có màu sắc khác nhau rồi thả vào
rừng nơi bị ô nhiễm do khói bụi và vùng nông thôn không bị ô nhiễm. Sau khi thả
1- 3 tuần, dùng đèn bẫy bắt trở lại và tính tỷ lệ sóng sót để ước lượng giá trị
thích nghi của các alen. Kết quả được trình bày ở bảng 3.5.
Bảng
3.5 . Tần số 3 dạng bướm trong số bướm bắt trở lại ở vùng bị nhiễm muội
than (Birmingham) và vùng không ô nhiễm (Deaned Wood, Dorset)
Địa điểm |
Số
bướm bắt lại |
|||
Thực
tế (O) |
Lý
thuyết (E) |
Tỷ lệ
sống sót tương đối |
Giá
trị thích nghi tương đối |
|
Vùng có muội than |
||||
Bướm
sáng đốm đen |
18 |
35,97 |
0,5 |
0,43 (0,5/1,15) |
Bướm
màu xám |
8 |
8,57 |
0,93 |
0,81 (0,93/1,15) |
Bướm
màu đen |
140 |
121,46 |
1,15 |
1 (1,15/1,15) |
Vùng không có muội than |
||||
Bướm
sáng đốm đen |
67 |
54,3 |
1,23 |
1 (1,23/1,23) |
Bướm
màu xám |
5 |
2,3 |
* |
* |
Bướm
màu đen |
32 |
47,4 |
0,68 |
0,55 (0,68/1,23) |
* Số liệu
không dùng vì quá nhỏ
Kết quả trong bảng cho thấy, ở vùng bị nhiễm muội
đen từ khói bụi, số bướm màu đen có tỷ lệ sống sót cao hơn 2 lần so với bướm
màu trắng và giá trị s trong trường hợp này là 0,57, lớn hơn nhiều so với giá
trị s đã ước lượng 0,33. Nếu s = 0,5 theo Haldane thì số thế hệ cần thiết để
tần số tương đối của gen C tăng từ 10-5 lên 0,8 chỉ cần 27 thế hệ
chứ không phải 50 thế hệ. Sự sai khác các ước lượng này được giải thích do
nhiều nguyên nhân: có thể tần số gen C ở vào năm 1848 còn thấp hơn 10-5,
hoặc số lượng cá thể nghiên cứu chưa đủ lớn,... Ngoài ra, có thể do sự di nhập
của dạng bướm màu trắng vào các vùng công nghiệp hay sự di cư khỏi vùng công
nghiệp của các bướm đen, cũng có thể do sự chênh lệch giá trị thích nghi của
gen C và c ở thời điểm mới xuất hiện bướm đen và hiện nay đã có sự thay đổi.
Tiến hoá là sự thay đổi vốn gen của quần thể qua
thời gian. Sự tăng tần số dạng bướm màu đen ở vùng công nghiệp. Tốc độ tăng tần
số gen C do tác dụng chọn lọc tự nhiên, có thể còn do sức sống cao của các bướm
đen dị hợp tử và đồng hợp tử, hoặc sự di nhập của các alen giữa các vùng phân
bố của bướm này.
2.2. Chọn lọc tự nhiên và sự hình thành tính kháng thuốc ở côn trùng
Nhiều loại thuốc trừ sâu, thuốc kháng sinh có hiệu
quả tiêu diệt rất tốt ngay từ lần sử dụng đầu tiên và hiệu lực của chúng được duy
trì khá lâu. Tuy nhiên, sau một thời gian dài sử dụng, hiệu lực của thuốc giảm
nhanh, thậm chí đến một thời điểm nhất định, thuốc không hiệu lực. Hiện tượng
này gọi là kháng thuốc, được phát hiện đầu tiên vào năm 1887. Đến năm 1970 đã
có 224 loài côn trùng kháng thuốc, năm 1989, tổng số loài chân khớp kháng thuốc
là 504, trong đó có 283 loài hại cây công nghiệp. Tốc độ tăng số loài chân khớp
kháng thuốc trừ sâu rất nhanh, từ 1 loài (năm 1908); 5 loài (1928); 14 loài
(1948), 224 loài (1967) và lên 432 loài vào năm 1980. Mỗi loài có sự tăng tốc
độ kháng với nhiều loại thuốc trừ sâu khác nhau. Đến năm 1990, sâu tơ Plutella xylostella đã kháng được 52
loại thuốc trừ sâu.
Ví dụ. DDT được sử dụng rộng rãi để diệt muỗn Anopheles culicifaciens ở Ấn Độ vào
những năm 1940 đã duy trì được hiệu lực trong 10 – 11 năm. Năm 1959, lần đâu
tiên người ta đã phát hiện những dòng kháng đối với DDT. Sau đó tính kháng
thuốc này tăng dần và gần như đã vô hiệu hoá hiệu lực diệt muỗi của DDT. Hiện
tượng kháng thuốc không phải là một quá trình thích nghi sinh lý của cá thể
trong quần thể mà bắt nguồn từ sự sai khác tự nhiên có bản chất di truyền về độ
mẫn cảm với thuốc trừ sâu giữa các cá thể trong quần thể. Ngay từ lần tiếp xúc
đầu tiên với thuốc độc đã có sự phân hoá về khả năng chống thuốc độc. Tỷ lệ
sống sót thay đổi từ 0% đến 100% tuỳ từng quần thể sau khi xử lý lần đầu tiên
với DDT. Trong điều kiện không có thuốc DDT, các đột biến chống DDT có thể là
đột biến có hại, nhưng trong môi trường có xử lý DDT thì cá thể mang đột biến
này sẽ trở thành có lợi, số lượng cá thể mang gen kháng này tăng lên khi DDT
tiếp tục được sử dụng.
Kết quả nghiên cứu của Sawick (1979) cho thấy tỷ
lệ cá thể mang gen kháng trong các quần thể tự nhiên là 1/10.000. Nếu tiếp xúc
liên tục với thuốc trừ sâu qua 15 thế hệ thì tỷ lệ này tăng lên 1/30. Cho tiếp
xúc thêm 7 thế hệ nữa thì tỷ lệ này tăng lên tới 1/1, nghĩa là kháng hoàn toàn
với thuốc đã phun. Khi không tiếp tục sử dụng thuốc trừ sâu đó nữa thì tính
kháng giảm dần và quần thể kháng có thể khôi phục lại tính mẫn cảm với thuốc
đó. Tuy nhiên trong một số trường hợp, quần thể kháng không thể hồi phục trở
lại được tính mẫn. Một giả thuyết khác giải thích sự tăng tính kháng DDT ở muỗi
đã được đưa ra, cho rằng, tính kháng là do sự điều khiển của một gen đơn; gen
kháng có thể là trội, lặn hoặc trội không hoàn toàn đối với alen mẫn cảm tự
nhiên.
Nếu gen kháng DDT là trội (ký hiệu là R) thì alen
mẫn là lặn (ký hiệu là S). Trong thí nghiệm xử lý muỗi bằng phun DDT, cá thể
muỗi bị chết sẽ có kiểu gen là SS. Từ số lượng muỗi bị chết có thể ước lượng
được tần số tương đối của các alen R và S cũng như tỷ lệ các kiểu gen RR, RS và
SS theo quy luật Hardy-Weinberg. Gọi s là hệ số chọn lọc chống lại kiểu hình
mẫn khi xử lý DDT. Ta có:
Kiểu gen: RR RS SS
Giá trị thích nghi tương đối 1 1 1
– s.
Nếu gọi P là
tần số của các alen R và q là tần số alen S thì tốc độ biến đổi tần số alen S
(∆q) sau một thế hệ, dưới tác động của chọn lọc tự nhiên là : ∆q =
Tần số alen mẫn giảm dần khi xử lý DDT. Số liệu ở
bảng 3.6 cho thấy, hệ số chọn lọc s chống lại Anopheles culicifaciens mẫn cảm DDT khác nhau, sự giảm tần số alen
mẫn sẽ khác nhau.
Bảng 3.6.
Sự thay đổi tần số alen mẫn DDT ở muỗi Anopheles culicifaciens (Curtis, 1978)
Trước
xử lý DDT |
Sau xử
lý DDT |
Thời
gian (tháng)* |
Hệ số
chọn lọc (s) |
0,96 |
0,56 |
8,25 |
0,4 |
0,56 |
0,24 |
4,5 |
0,55 |
* Thời
gian thế hệ ở muỗi trung bình là 1 tháng.
2.3. Hình thành tính kháng thuốc kháng sinh ở nhiều loại vi khuẩn
gây bệnh
Vi khuẩn hình thành tính kháng thuốc với thuốc
kháng sinh rất nhanh thông qua đột biến. Đột biến đó có thể được truyền sang vi
khuẩn khác bằng con đường biến nạp (transfomation), tải nạp (transduction) và
tiếp hợp (conjugation).
Staphylococcus
aureus là vi khuẩn gây nhiễm
trùng nguy hiểm ở người. Năm 1941, lần đầu tiên sử dụng penicillin G đã có tác
dụng tiêu diệt nhờ thuốc ức chế sự tổng hợp thành tế bào vi khuẩn, năm 1944 đã
phát hiện một số dòng kháng với penicillin và đến năm 1992, đã có hơn 95% số
dòng vi khuẩn này đã kháng được đối với penicillin và một số thuốc tương tự
khác. Vi khuẩn kháng kháng sinh thông qua cơ chế:
Một đột
biến nhiễm sắc thể mới quy định tính kháng penicillin. Một số vi khuẩn đã mang
các gen kháng xuất hiện từ trước và biểu hiện không bình thường, các gen này
trở nên có lợi khi bị xử lý kháng sinh. Các gen kháng có thể được chuyển vào vi
khuẩn khác thông qua hiện tượng biến nạp. Các virus ký sinh vi khuẩn có thể lấy
gen kháng vi khuẩn và mang nó sang ký chủ tiếp theo, rồi chèn vào genome vi
khuẩn. Nếu như vi khuẩn sống sót và nhiễm virus thì nó sẽ có được tính kháng.
Cơ chế này được gọi là tải nạp (transduction).
Tương tự
như biến nạp, vi khuẩn chứa các plasmid, một số trong đó có chứa gen kháng
kháng sinh và chúng thường trao đổi
gen plasmid và gen nhiễm sắc thể trong một quá trình thứ ba được gọi là tiếp
hợp (conjugation).
Mặt khác, trong genome vi khuẩn có các yếu tố di
truyền vận động, các transposons hoặc “gen nhảy” có thể lấy một gen kháng và
chuyển nó dọc nhiễm sắc thể chính hoặc đi vào trong plasmid. Các transposons và
các plasmid qua tiếp hợp, tạo cơ hội cho sự chuyển dịch ngang của gen kháng
sang các vi khuẩn khác.
Sự tiến hoá các gen kháng thuốc kháng sinh ở vi
khuẩn diễn ra rất nhanh. Các gen kháng đã tiến hoá, từ một vi khuẩn truyền
ngang sang các vi khuẩn khác thông qua con đường biến nạp, tải nạp và tiếp hợp.
Sự xuất hiện và tăng nhanh tính kháng ở nhiều dòng
vi khuẩn lây nhiễm đã đòi hỏi phải trả giá ngày càng cao để chống lại các bệnh
nhiễm khuẩn này. Ở Mỹ, tiền chữa trị cho một trường hợp nhiễm khuẩn kháng với
nhiều loại thuốc cần khoảng 180.000 đôla.
Quá trình hình thành quần thể thích nghi nhanh hay
chậm phụ thuộc vào tốc độ đột biến, áp lực chọn lọc, khả năng sinh sản của loài
cũng như hình thức sinh sản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét