Là một trong 2 dạng
cơ bản của quá trình oxi hóa (hô hấp và lên men). Hô hấp liên quan mật thiết
với sự sống, nó đặc trưng cho bất kỳ một cơ quan, một mô , một tế bào sống nào.
Hô hấp là quá trình phân giải hoàn toàn nguyên liệu hữu cơ thành các sản phẩm
vô cơ cuối cùng nghèo năng lượng là CO2 và nước đồng thời giải phóng
ra một nguồn năng lượng lớn.
Phương trình
tổng quá của quá trình hô hấp được biểu thị:
C6H12O6
+ 6CO2 = 6CO2 + 6H2O+698 Kcal/mol glucozo
Ý nghĩa sinh
học của hô hấp không chỉ tạo ra năng lượng cho các hoạt động sống của tế bào và
cơ thể mà không kém phần quan trọng là tạo ra các sản phẩm trung gian là những
tiền thân những chất trao đổi trong nhiều khâu quan trọng của quá trình trao
đổi chất chung của tế bào.
1. Hô hấp yếm khí và hô hấp hiếu khí của cây xanh
Ở thực vật
gluxit là chất cơ bản dễ phân giải oxi hoá. Trong gluxit thì đường hexozo như
glucozơ, Frutozơ là những chất có khả năng phân giải tốt nhất. Vì thế trong quá
trình hô hấp, glucozơ được xem là nguyên liệu cơ bản và chủ yếu nhất trong tế
bào.
Trong tế bào
phân tử đường có thể được oxi hoá bằng con đường hiếu khí và cũng có thể được
oxi hoá bằng con đường yếm khí.
* Giai đoạn
đường phân hay giai đoạn yếm khí là giai đoạn từ nguyên liệu hô hấp được phân
giải tới sản phẩm đơn giản hơn chứa bao nguyên tử cacbon là ATP.
* Giai đoạn
hiếu khí của hô hấp:
Sản phẩm cuối
cùng của đường phân là ATP, trong điều kiện có oxi thì nó tiếp tục được phân
giải hiếu khí hoàn toàn thành CO2 và nước theo chu trình Crep. Chu
trình Crep có ý nghĩa lớn đối với đời sống của thực vật ở chỗ nó chuẩn bị
nguyên liệu cho các quá trình tổng hợp xảy ra trong giai đoạn sinh trưởng của
các tế bào non, những hợp chất này có thể là những chất tiền thân cho rất nhiều
các phản ứng tổng hợp và trao đổi chất của các Axitamin các phản ứng tổng hợp
các nuclêolit, cho các phản ứng hình thành những hợp chất vòng khác nhau, các
chất béo và nhiều hợp chất khác.
* Chu trình Axit
glioxilic: Năm 1957 canbec và hep lại tìm ra thêm một chu trình hô hấp khác nữa
gọi là chu trình Axit glioxlic. Chu trình này là
một biến thể của chu trình Crep. Trong chu trình này có sự tham gia của Axit
glioxilic và các hợp chất 2C, ví dụ như Axetat CH3 COOH được sử dụng
làm nguồn cacbon (hình 5).
Cacbonhidratlà
nguyên liệu hô hấp cơ bản của mô cây xanh. Đó là những momsaucanit và các
pilisaccrit bậc 1, một số polisaccanit bậc II (tinh bột, innulin, hemixenluloz). Tuy nhiên các polisaccarit chỉ được sử
dụng làm nguyên liệu hô hấp sau khi đã được phân giải sơ bộ bằng con đường thuỷ
phân hoặc photphorin hoá. Ngoài cacbonlhidrat thì những dẫn xuất của chúng như
glucozit, các chất pectin cũng có thể làm nguyên liệu hô hấp của tế bào thực
vật sau khi đã được thuỷ phân. Các chất béo cũng được cây xanh sử dụng là
nguyên liệu hô hấp. Tuy nhiên chất béo phải được thuỷ phân thành Axit béo và
glixeril, các cấu này sẽ được dùng làm nguyên liệu hô hấp, protein cũng có thể
được dùng làm nguyên liệu cho hô hấp thông qua oxihoá các Axitamin.
Hệ số hô hấp
(RQ) là tỉ số giữa lượng CO2 thải ra và lượng O2 hút vào
trong hô hấp.
Ngoài
cacbondrat thì liprit và protit đều có thể biến đổi oxi hoá không cần qua sự
biến đổi trước thành cacbonhidrat. Việc sử dụng nguyên liệu hô hấp này hay
nguyên liệu khác phụ thuộc vào loài, tuổi và những điều kiện sinh tồn. Tùy
thuộc nguyên liệu riêng hô hấp mà hệ số hô hấp
sẽ khác nhau. Ví dụ: Nguyên liệu chủ yếu của hô hấp là saccaroz hoặc
tinh bột thì hệ số hô hấp là 1 (CO2/O2 = 6/6=1). Còn
nguyên liệu hô hấp là chất béo và protein thì hệ số hô hấp nhỏ hơn 1. Qua hệ số
hô hấp người ta có thể đánh giá được bản chất của chất đã được oxi hoá.
3. Sử dụng năng lượng của thực
vật
Năng lượng hoá
học chứa đựng trong các liên kết hoá học của các chất hữu cơ đặc biệt là
xaccarit giải phóng ra trong quá trình hô hấp được tích luỹ dưới dạng ATP sẽ
được cơ thể sử dụng theo nhiều hướng khác nhau.
- Sử dụng vào
quá trình sinh tổng hợp các chất phức tạp từ những chất đơn giản.
- Sử dụng vào
quá trình sinh tổng hợp protein thông qua sự hoạt hoá các Axit amin. Trong quá
trình tổng hợp các chất béo, năng lượng của ATP được dùng để hình thành các
liên kết cao năng giữa phân tử CoA và các nhóm acetyl tạo nên hợp chất Acetyl -
CoA có khả năng phản ứng cao.
- Ngoài ATP các
nuclêôtit khác như UTP, XPP, GTP, ITP cũng tham gia tích cực vào các quá trình
chuyển hoá các nguyên liệu hữu cơ. Các hợp chất này được hình thành từ các dạng
điphotphat tương ứng nhờ tác dụng chuyển năng lượng của ATP. Trong đó: UTP là
nguồn năng lượng của các quá trình sinh tổng hợp các đixactarit, polixactarit;
XTP có vai trò quan trọng trong trao đổi lipit.
- Sử dụng vào
các quá trình sinh lý của cơ thể như khi xâm nhập, hấp thụ, tích luỹ và vận
chuyển các chất vào tế bào.
- Sử dụng để
thực hiện sự vận chuyển trong cây, sự cảm ứng, hiện tượng phát quang sinh hoạt
trong quá trình phân bào trong sự hình thành và duy trì cấu trúc của chất
nguyên sinh.
Sự hấp thụ oxi
xảy ra cùng với sự thải CO2 phụ thuộc vào ánh sáng được gọi là hô
hấp sáng. Trong thực tế có nhiều loài cây có khả năng hô hấp ở ngòai ánh sáng
gọi là hô hấp sáng và quá trình hô hấp sáng này diễn ra song song với quá trình
quang hợp. Quá trình hô hấp sáng với điểm bù CO2 cao được xác định ở
nhiều loài cây C3 như hướng dương, thuốc lá, lúa mì,các cây họ đậu…
còn những cây có điểm bù CO2 thấp như cây C4
như củ cải đường, mía, ngô và một số loài có nguồn gốc nhiệt đới khác thì không
phát hiện thấy có sự hô hấp sáng. Nguyên liệu của hô hấp sáng được xác định là Axit
glioxilic được hình thành trong lục lạp và quá trình chuyển hoá Axitgicolic
diễn ra trong 3 bào quan khác nhau (lục lạp, ti thể và peroxixom).
Hô hấp sáng
khác hô hấp ở chỗ hô hấp sáng là một quá trình phụ thuộc nhiều vào oxi và ánh
sáng, hô hấp sáng có cường độ lớn hơn hô hấp tối làm giảm sút cường độ quang
hợp.
Quá trình hô
hấp sáng đã sử dụng tới 20-50% sản phẩm của quang hợp, vì thế làm giảm sự tích
luỹ chất khô, làm giảm năng lượng, làm giảm năng suất. Mặt khác trong quá trình
hô hấp sáng không có sự tích luỹ năng lượng. Truy nhiên hô hấp sáng có y nghĩa
hình thành một số Axitamin.
5. Vai trò hô hấp trong đời sống của cây và những ứng dụng thực tiễn
* Ở cây xanh:
Cả hô hấp và quang hợp đều là nguồn cung cấp năng lượng cho tế bào, năng lượng
được giải phóng ra trong các quá trình phốt pho rin hoá sẽ được cố định trong
các liên kết cao năng trong phân tử ATP và được sử dụng vào các hoạt động sống
của tế bào. Hô hấp cung cấp các sản phẩm trung gian cho các quá trình trao đổi
chất. Hô hấp là trung tâm liên kết sự trao đổi gluxit, protein và chất béo.
Trong quá trình
oxi hoá nguyên liệu của hô hấp sẽ tạo nên những sản phẩm trung gian mà chính
những sản phẩm trung gian này là những sợi dây liên kết các mặt khác nhau của
quá trình trao đổi chất thống nhất trong cơ thể.
Hô hấp không thể xem đơn thuần là một quá
trình dị hoá mà trong một mức độ nào đó hô hấp lại có một ý nghĩa là một quá
trình đồng hoá tạo ra các sản phẩm khác nhau cần thiết cho quá trình sinh tổng
hợp những thành phần khác nhau của sinh chất.
* Ứng dụng của
hô hấp thực vật và bảo quản các đối tượng thực vật.
Hiểu được mỗi
liên quan hô hấp với các điều kiện ngoại cảnh ta có thể điều khiển các đối
tượng bảo quản giữ được chất lượng theo mục đích của mình.
Ví dụ: bảo quản
các loại rau quả củ thì nhân tố chủ yếu là nhiệt độ thường người ta bảo quản
chúng trong nhà lạnh ở nhiệt độ không quá 3-70C, trong môi trường
giàu CO2, hoặc bơm nitơ vào kho bảo quản nhằm làm giảm lượng oxi làm
hạn chế hô hấp. Hạt càng ẩm hô hấp càng
mạnh, vì vậy trước khi cho hạt vào bảo quản người ta phải phơi khô hạt để đảm
bảo dưới độ ẩm cho phép, độ ẩm cho phép hay còn gọi là độ ẩm tới hạt của hạt
các loài họ lúa là 14-15%, các loài cây có dầu thấp hơn 8-9%...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét