1. Điện thế nghỉ và điện thế hoạt động
- Định nghĩa
Khi tế bào ở trạng thái nghỉ, điện thế mặt trong
màng có trị số âm so với mặt ngoài, điện thế này được gọi là điện thế nghỉ của
màng (hay điện thế màng lúc nghỉ - Resting membrane potential).
Trị số điện thế nghỉ của màng tế bào khác nhau tùy
thuộc vào loại tế bào: Ở thân nơron là -65mV, ở sợi thần kinh lớn và sợi cơ vân
là -90mV, ở một số sợi thần kinh nhỏ là -60 đến -40mV. Nếu điện thế màng bớt âm
hơn thì màng dễ bị kích thích hơn. Nếu điện thế màng âm hơn (ưu phân cực) thì
màng khó bị kích thích hơn. Đây là cơ sở của hai hình thức hoạt động của nơron
là hưng phấn hay ức chế.
- Sự chênh lệch nồng độ ion giữa hai bên màng
Sự chênh lệch nồng độ ion giữa hai bên màng có
liên quan chặt chẽ với điện thế nghỉ.
Bảng 2.2. Điện thế nghỉ hai bên màng tế bào
Ion |
Dịch
ngoại bào |
Dịch
nội bào |
Điện
thế khuếch tán (Điện thế Nernst) |
[Na+] |
142 mEq/l |
14 mEq/l |
+61mV |
[K+] |
4 mEq/l |
140 mEq/l |
-94mV |
[Cl-] |
103 mEq/l |
4 mEq/l |
-70mV |
Do có sự chênh lệch nồng độ giữa hai bên màng mà
ion có xu hướng khuếch tán từ nơi nồng độ cao đến nơi nồng độ thấp (theo chiều
bậc thang nồng độ). Ví dụ: Ion natri có xu hướng khuếch tán từ ngoài vào trong
màng, còn ion kali lại có xu hướng khuếch tán từ trong ra ngoài màng (hình 9).
Điện thế
màng do sự khuếch tán của một ion qua màng gọi là điện thế khuếch tán (hay điện
thế Nernst) của ion đó. Điện thế
Nernet được tính theo phương trình Nernst như sau:
Điện thế Nernst (mV)
Trong đó: Ci
là nồng độ ion ở trong màng tế bào
C0 là nồng độ ion ở ngoài màng tế bào
Khi dùng công thức này, ta giả định rằng màng chỉ
rất thấm với một loại ion, điện thế ngoài màng luôn bằng 0 và điện thế Nernst
là điện thế bên trong màng. Dấu của điện thế là (+) nếu ion (-) và dấu của điện
thế là (-) nếu ion (+) khuếch tán qua màng.
Trong cùng một thời điểm có nhiều ion khác nhau
khuếch tán qua màng và tính thấm của màng cũng khác nhau đối với mỗi loại ion.
Vì vậy: Khi màng thấm nhiều loại ion khác nhau cùng một lúc thì điện thế khuếch
tán phụ thuộc vào ba yếu tố là:
- Dấu của điện tích ion, (2) tính thấm của màng
đối với mỗi ion, (3) nồng độ của ion đó ở trong và ngoài màng.
Vì thế, để tính điện thế khuếch tán khi màng thấm
nhiều loại ion khác nhau phải dùng phương
trình Goldman (Goldman – Hodkin – Katz), phương trình này có tính đến cả 3
yếu tố trên.
- Các
nguyên nhân gây ra điện thế nghỉ (điện thế màng lúc nghỉ)
Ở trạng thái nghỉ, sở dĩ mặt trong có trị số âm
hơn so với mặt ngoài là so sự chênh lệch nồng độ ion giữa hai bên màng. Có ba
nguyên nhân gây ra sự chênh lệch này, đó là: (1) sự rò rỉ ion qua màng, (2) bơm
Na+ - K+ ATPase và (3) ion âm kích thước lớn trong tế bào.
- Sự rò rỉ ion qua màng (khuếch tán qua màng)
Trên màng có các kênh protein cho các ion đặc hiệu
thấm qua. Ở trạng thái nghỉ cổng của các kênh này luôn đóng, nhưng không đóng
chặt hoàn toàn nên các ion có thể rò rỉ qua kênh, còn gọi là rò rỉ qua màng.
Mức độ rò rỉ qua màng của từng loại ion không giống nhau và phụ thuộc vào mức
độ đóng chặt kênh của mỗi loại ion. Điện thế được tạo ra do sự rò rỉ ion được
gọi là điện thế khuếch tán.
Điện thế
do khuếch tán ion kali: Tỷ lệ
nồng độ ion kali bên trong/ion kali bên ngoài màng =35 nên log[35] = 1,54 và
điện thế Nernst của ion kali =-94mV.
Điện thế
do khuếch tán ion natri: Tỷ lệ
nồng độ ion natri bên trong/ion natri bên ngoài màng =0,1 nên log[0,1] = -1 và
điện thế Nernst của ion natri = +61mV.
Do tính
thấm của màng đối với ion kali cao hơn đối với ion natri 100m lần, nên phần
đóng góp cho điện thế nghỉ của ion kali cao hơn đối với ion natri.
Dựa vào phương trình Goldman tính được điện thế
khuếch tán của cả hai ion natri và kali là - 86mV.
+ Bơm Na+ - K – ATPase
Đây là
nguyên nhân chính tại điện thế nghỉ của màng, vì bơm Na+ - K+ - ATPase hoạt động liên
tục, vận chuyển tích cực Na+ và K+ qua màng. Mỗi chu kỳ
hoạt động bơm đưa 3 Na+ đi ra ngoài 2K+ vào trong tế bào,
tức là tạo ra thiếu hụt ion dương ở bên trong màng. Phần điện thế âm bên trong
màng do bơm Na+ - K+ - ATPase tạo ra là -4mV.
Từ các số liệu trên cho thấy do cả ba nguyên nhân
là điện thế do khuếch tán ion kali, điện
thế do khuếch tán ion natri, điện thế do hoạt động của bơm Na+ - K+
- ATPase tạo nên điện thế màng lúc nghỉ là -90mV ở màng tế bào cơ tim, cơ
vân, sợi trục lớn của tế bào thần kinh…
Ở một số loại tế bào khác, như sợi thần kinh đường
kính nhỏ, tế bào cơ trơn và nhiều loại nơron thần kinh có điện thế màng chỉ từ
- 40mV đến - 60mV.
+ Ion âm có kích thước lớn trong tế bào
Ngoài hai nguyên nhân trên, trong tế bào có các
ion âm do có kích thước lớn nên không qua được màng tế bào ra ngoài (phân tử
protein, phosphat…). Những ion này cũng góp phần làm cho điện thế bên trong
màng âm hơn so với bên ngoài.
1.2. Điện thế hoạt động (Action Potential)
Điện thế hoạt động là những thay đổi điện thế
nhanh, đột ngột mỗi khi màng bị kích thích.Những tín hiệu thần kinh được dẫn
truyền bằng các điện thế hoạt động này.
1.2.2. Các giai đoạn của điện thế hoạt động
+) Giai
đoạn khử cực:
Khi màng bị kích thích thì tính thấm của màng đối
với Na+ tăng rất cao, các kênh natri mở ra, các Na+ đi
vào bên trong tế bào, trạng thái cực hóa bị mất, điện thế màng trở nên bớt âm
hơn. Khi điện thế tăng lên đến – 70mV (hoặc tới – 50mV tùy từng cơ quan) thì
gây mở đột ngột cổng hoạt hóa của kênh natri, các Na+ ùa qua kênh
vào trong tế bào. Lúc này, tính thấm của màng đốim với Na+ tăng 500
– 5000 lần. Na+ vào trong tế bào làm điện thế từ -90mV tăng lên 0mV.
Hiện tượng này được gọi là khử cực
(depolarization), tức là khử bỏ trạng thái cực hóa. Ở các sợi thần kinh lớn
hoặc các sợi cơ vân, điện thế còn đạt trị số (+) gọi là hiện tượng “quá đà”). Ở
các sợi thần kinh nhỏ và nhiều nơron của hệ thấn kinh điện thế đỉnh hiếm khi
tăng lên đến 0mV và không bao giờ đạt trị số (+). Trạng thái này kéo dài vài
phần vạn giây.
+) Giai đoạn
tái cực:
Vài phần vạn giây sau khi màng tăng vọt tính thấm
với Na+ thì kênh natri bắt đầu đóng lại. Lúc này, kênh kali mở rộng
ra, thì kênh natri bắt đầu đóng lại. Lúc
này, kênh kali mở rộng ra, K+ khuếch tán ra ngoài, làm mặt trong
màng bớt dương hơn, rồi lại trở nên âm hơn mặt ngoài như trong trạng thái nghỉ.
Vì vậy, giai đoạn này được gọi là giai
đoạn tái cực (repolarization) và điện thế nghỉ của màng được tái tạo lại với
trị số - 90mV. Giai đoạn này cũng kéo dài và phần vạn giây (dài hơn giai
đoạn khử cực bì kênh K+ mở từ từ hơn).
+) Giai đoạn
ưu phân cực:
Do sự mở các kênh kali chậm hơn và vẫn tiếp tục mở
trong vài miligiây sau khi điện thế hoạt động chấm dứt, nên sau giai đoạn tái
cực điện thế màng không chỉ trở về mức điện thế lúc nghỉ (-90mV) mà còn âm hơn
nữa (có thể tới khoảng -100mV), sau đó mới trở về bình thường. Vì vậy, giai đoạn này được gọi là giai đoạn ưu phân
cực .
1.2.3. Nguyên nhân của điện thế hoạt động
Nguyên nhân của điện thế hoạt động là sự thay đổi
hoạt động của các kênh ion, trong đó có vai trò của kênh natri, kênh kali và
một vài kênh khác.
+) Sự hoạt hóa kênh natri
Kênh natri có hai cổng ở hai đầu kênh, cổng ở phía
ngoài màng là cổng hoạt hóa, cổng ở
phía trong màng là cổng khử hoạt.
- Ở trạng
thái bình thường, điện thế màng
lúc nghỉ là -90mV, cổng hoạt hóa ở bên
ngoài đóng nên ion natri không vào bên trong màng được, còn cổng khử hoạt ở
bên trong màng thì mở.
- Kênh
natri được hoạt hóa khi màng bị kích thích: Khi điện thế màng tăng lên từ -90mV đến -70mV (hoặc tới -50mV tùy loại
tế bào ở từng cơ quan) thì gây biến đổi đột ngột hình dáng cổng hoạt hóa của
kênh natri, cổng hoạt hóa mở ra, các
ion natri ùa qua kênh vào trong tế bào. Lúc này, tính thấm của màng đối với ion
natri tăng 500 – 5000 lần. Trạng thái này kéo dài vài phần vạn giây.
- Khử
hoạt kênh natri: Sự tăng điện thế
bên trong màng làm mở cổng hoạt hóa, nhưng đồng thời cũng làm đóng cổng khử
hoạt. Việc đóng cổng khử hoạt xảy ra ngay
sau khi mở cổng hoạt hóa, chỉ sau vài phần vạn giây. Điều kiện đáng chú ý
là việc mở cổng hoạt hóa diễn ra rất nhanh, còn đóng cổng khử hoạt thì xảy ra
từ từ. Khi cổng khử hoạt của kênh natri đóng lại, ion natri không tiếp tục vào
tế bào được nữa.
+) Sự hoạt hóa kênh kali
Kênh kali cũng là loại kênh có cổng đóng mở do
điện thế. Nhưng kênh kali khác kênh natri ở chỗ là chỉ có một cổng đóng mở ở
bên trong màng, đó là cổng hoạt hóa, mà không có cổng khử họat như ở kênh
natri. Ở trạng thái nghỉ, cổng của
kêng kali đóng, ion kali không ra ngoài màng được. Khi điện thế màng tăng từ -90mV lên phía 0mV thì làm biến đổi hình
dạng của cổng, cổng mở từ từ và ion kali
khuếch tán qua kênh ra ngoài tế bào. Thời gian mở kênh kali và K+
khuếch tán ra ngoài trùng với thời gian giảm tốc độ khuếch tán của ion natri
vào trong tế bào. Giai đoạn này cũng kéo dài trong vài phần vạn giây (dài hơn
so với giai đoạn khử cực vì kênh kali mở từ từ và đóng lại cũng chậm hơn). Kết
quả là điện thế nghỉ được phục hồi.
Ngoài kênh natri và kênh kali tạo điện thế hoạt
động còn có vai trò của một số kênh ion khác, đặc biệt là kênh calci (còn gọi
là kênh calci – natri hay kênh chậm). Ở tế bào cơ tim và cơ trơn,
các kênh calci đóng vai trò quan trọng trong tạo điện thế hoạt động.
1.2.4. Sự phát sinh điện thế hoạt động
Một
feedback dương mở kênh natri:
Bình thường, điện thế màng ở cơ tim, cơ vân, sợi thần kinh to là -90mV. Khi có
một kích thích nào đó làm điện thế màng tăng đôi chút hướng về phía 0mV thì làm
mở một số kênh natri, Na+ vào trong màng làm cho điện thế màng tăng
lên. Điện thế màng tăng lên lại làm mở thêm các kênh natri khác. Đây là một
feedback dương làm cho các kênh natri trong khoảnh khắc rất ngắn đã mở hoàn
toàn (hoạt hóa hoàn toàn) tạo ra điện thế hoạt động. Tiếp sau đó, các kênh
natri bị khử hoạt và các kênh kali bắt đầu mở, làm cho điện thế hoạt động nhanh
chóng kết thúc.
1.2.5. Điện thế màng khi tế bào bị ức chế
Khi tế bào bị ức chế (do các chất truyền đạt thần
kinh có tác dụng ức chế gắn với receptor đặc hiệu trên màng) thì hoặc kênh kali
hoặc kênh clo, hoặc cả hai kênh này cùng mở ra. Tác dụng này kéo dài khoảng 1-
2 miligiây.
Kênh kali mở, các K+ đi ra ngoài màng,
làm mặt trong màng trở nên âm hơn. Kênh clo mở, các Cl- đi vào trong
màng, làm điện thế trong màng trở nên âm hơn, tức là -70mV (bình thường điện
thế nghỉ ở thân nơron là - 65mV), mức âm
thêm 5mV là điện thế ức chế.
1.2.6. Sự lan truyền điện thế hoạt động
+) Cơ chế
của lan truyền điện thế hoạt động: Cơ chế của lan truyền điện thế hoạt động
là sự tạo nên một “mạch điện” tại chỗ, giữa vùng đang khử cực và phần màng ở
vùng tiếp giáp. Ở tế bào thần kinh, điện thế hoạt động lan truyền dọc sợi trục,
làn sóng lan truyền được gọi là “xung
động thần kinh”. Làn sóng lan truyền ở cơ (gây co cơ) gọi là “xung động ở cơ”.
+) Hướng lan
truyền: Từ chỗ phát sinh, điện thế hoạt động lan theo hai chiều trên sợi trục của tế bào thần kinh và chỉ lan theo một chiều qua synap thần kinh, synap
thần kinh – cơ hoặc synap thần kinh – tế bào đích. Vì vậy, trên thực tế, hướng
len truyền của điện thế hoạt động trong cơ thể chỉ đi theo một chiều, hoặc từ
ngoại vi về trung tâm (nếu là dẫn truyền xung động cảm giác), hoặc từ trung tâm
ra noại vi (nếu là dẫn truyền xung động vận động).
2. Dẫn truyền hưng phấn trên dãy thần kinh
Hình 11. Dẫn truyền trên sợi thần kinh không có
màng mielin
Mỗi nơron đều được cấu tạo bởi thân bào và các rễ. Người ta phân biệt rễ
ngắn (các sợi nhánh) và rễ dài (sợi trục). Tế bào thần kinh thường có nhiều rễ
ngắn và một rễ dài. Các rễ dài tập hợp lại với nhau để tạo thành dây thần kinh.
Các sợi trục của tế bào thần kinh thường nằm trong
màng Lipoproteit bắt đầu cách thân bào một đoạn và kết thúc trước khi có xináp
khoảng 2mm.
Các sợi thần kinh có màng Lipoproteit bao bọc được gọi là sợi mielin. Màng
Lipoproteit của sợi thần kinh không liên tục (1) nó bị phân ra thành từng đoạn
ở giữa có eo Ranvie (2) ngăn cách. Bên trong màng mielin là trục chính (3). Các
sợi thần kinh có màng mielin bao quanh còn được gọi là sợi mềm. Ngoài loại này
còn rất nhiều sợi thần kinh không có màng mielin. Người ta gọi chúng là các sợi
cứng. Xung điện lan truyền trên dây thần kinh có và không có màng mielin không
giống nhau.
Đối với dây thần kinh không có màng mielin xung
điện lan truyền liên tục từ vị trí này tới vị trí khác. Ta có thể thấy hiện
tượng này qua hình vẽ. Qua hình vẽ ta thấy: bình thường dây thần kinh có điện
tích dương (+) bên ngoài và điện tích âm (-) bên trong màng. Khi điểm A bị kích
thích, do độ thấm của màng đối với các ion natri tăng, nên đã xảy ra hiện tượng
đảo cực. Bên ngoài màng có đi tích âm (-), còn bên trong màng –
điện tích dương (+): Xung xuất hiện tại điểm A sẽ chạy theo vòng cung giữa A Û B từ dướng tới âm. Dòng điện xoáy này sẽ làm giảm
điện thế màng của phần sợi thần kinh nằm gần điểm A (điểm B). Thế hiệu màng của
phần này giảm dần, khi thế hiệu tĩnh giảm xuống khoảng 20 mV thì độ thấm đối
với các ion natri tăng đột ngột. Phía bên trong màng trở nên dương tính, kêt
quả điểm B đã trở thành điểm hoạt hóa. Nó sẽ ảnh hưởng tới độ thấm của màng tế
bào tại vùng tiếp theo. Nhờ vậy mà xung thần kinh đã lan truyền từ điểm này tới
điểm khác của sợi thần kinh không có màng mielin.
Quá trình lan truyền xung động trong các sợi thần
kinh có màng mielin xảy ra không giống như vậy. Màng mielin của các sợi thần
kinh loại này bị các eo Ranvie chia ra thành từng đoạn có chiều dài khoảng 2
mm. Đoạn nằm giữa hai eo Ranvie là các dây dẫn thụ động, không có khả năng hưng
phấn. Chỉ có màng tại vùng eo mới có khả năng hưng phấn, muốn có được xung điện
kích thích phải tác động vào một trong số các eo Ranvie. Giả sử xung thần kinh
xuất hiện tại điểm A. Để lan truyền được nó sẽ nhảy cóc từ A tới B. Có khi nó nhảy
qua eo Ranvie chưa bị hoạt hóa. Chính nhờ cách này mà tốc độ lan truyền trong
dây thần kinh có màng mielin tăng lên. Hiện tượng lan truyền điện hoạt động
trên dây thần kinh có những đặc điểm sau đây:
1. Tốc độ lan truyền tỉ lệ thuận với đường kính
của sợi thần kinh. Đường kính càng to bao nhiêu thì tốc độ lan truyền càng lớn
bấy nhiều.
2. Xung điện chỉ đi theo một chiều. Trước khi xuất
hiện, xung thần kinh hưng phấn tính tại
điểm bị kích thích đạt tới mức độ cực đại. Cũng vì vậy mà xuất hiện sóng mũi
(spike). Trong lúc đó có spike hưng tính giảm xuống bằng 0. Thời gian này được
gọi là thời kì trơ tuyệt đối. Vì bất kì kích nào rơi vào thời điểm này cũng
không tạo ra được điện thế hoạt động. Ngay sau đó là thời kì hồi phục hưng tính
được gọi là thời kì trơ tương đối. Rồi hưng tính sẽ tăng lên trên mức bình thường – thời kì
bột phát. Sau thời kì này hưng tính giảm dần và trở lại bình thường. Hiện tượng
này cho thấy nếu xung thần kinh truyền từ A sang B thì nó chỉ có thể đi tiếp
tới C chứ không quay trở lại được. Vì nếu quay trở lại nó sẽ rơi vào đúng thời
kì trơ tuyệt đối.
3. Sợi thần kinh càng to bao nhiêu thì ngưỡng kích
thích càng nhỏ bấy nhiêu.
3. Chuyển giao hưng phấn qua xináp
Xináp là điểm tiếp xúc giữa các nơron với nhau hay
giữa các nơron với các tế bào khác. Để hiểu được điều này chúng ta xét cấu tạo
của xináp thần kinh – cơ. Qua hình vẽ ta thấy tại điểm kết thúc, màng mielin
của sợi trục không còn nữa. Đầu mút của đột trục phình ra để tạo thành chùy
xináp. Màng bao quanh chùy xináp được gọi là màng trước xináp (1). Trong chùy
xináp có rất nhiều túi nhỏ chứa chất môi giới; màng của sợi cơ tiếp cận với chùy
xináp được gọi là màng sau xináp (5). Màng trước và màng sau xináp không dính
vào nhau. Nó bị ngăn cách bởi một khe rộng khoảng 200-300 mm được gọi là khe xináp.
Khi có kích thích các túi chất môi
giới nằm trong chùy xináp được giải phóng vào khe xináp. Nó được vận chuyển qua
khe để tới tiếp xúc với màng sau xináp. Số lượng túi chất môi giới được giải
phóng phụ thuộc vào cường độ kích thích.
Chất môi giới chỉ được tiết ra dưới tác động của hưng phấn dưới dạng xung điện
đi trên đột trục. Bằng phương pháp phân tích thành phần hóa học người ta đã cho
thấy chất môi trường đặc biệt tiết ra ở xináp thần kinh cơ là axetincolin. Phần
màng sau xináp của sợi cơ có độ nhạy cảm đặc biệt đối với axetincolin. Chỉ một
lượng bằng 10-16 – 10-15 mol axetincolin cũng đủ để gây
ra hưng phấn màng sau xináp và làm xuất hiện thế điện động lan truyền trên sợi
cơ. Trong khi đó môi giới cao hơn nhiều. Các phần còn lại của sợi cơ hầu hết
như không nhạy cảm đối với axetincolin. Tại chùy xináp có một hệ thống men tổng
hợp chất môi giới. Còn tại màng sau xináp có hệ thống men phân hủy các chất
này. Kết quả là sau khi gây ra ảnh hưởng tới màng sau xináp, axetincolin nhanh
chóng bị men colinesteraza phân hủy thành axetat và colin. Các sản phẩm này
được thu hồi về chùy xináp. Tại đấy chúng được tái tổng hợp thành axetincolin.
Toàn bộ quá trình nêu ra ở trên có thể biểu diễn bằng sơ đồ hình 15.
Hình 14. Cơ chế chuyển giao qua xináp thần kinh -
cơ
Như vậy, sự chuyển giao
hưng phấn qua xináp được thực hiện bằng phương
thức hóa học. Các chất môi giới đảm nhận công việc này. Nhưng chất môi giới
một chiều từ màng trước tới màng sau
xináp. Một điểm nữa chậm lại. Sở dĩ
có hiện tượng này vì từ lúc xung động tác động vào vùng trước xináp tới khi
xuất hiện những biến đổi phân cực tại màng sau xináp phải mất một khoảng thời
gian gần bằng 0,4ms.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét